Giới thiệu, hướng dẫn soạn bài Chùm thơ hai-cư Nhật Bản. Thông tin chung về văn bản, gợi ý trả lời câu hỏi sgk Ngữ văn 10 Kết nối tri thức chi tiết giúp bạn có sự chuẩn bị tốt nhất trước giờ học.
Chùm thơ hai-cư Nhật Bản Kết nối tri thức – Thông tin chung
Các thông tin về tác giả, tác phẩm, nội dung của các đoạn thơ trong Chùm thơ hai-cư Nhật Bản.

Giới thiệu về thơ hai-cư Nhật Bản
Hai-cư là một thể thơ truyền thống độc đáo của Nhật Bản (thi quốc), được hình thành từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ XVII có những thành tựu nổi bật.
Thơ hai-cư thuộc loại ngắn nhất thế giới (cả bài chỉ 17 âm tiết, ngắt thành 3 đoạn 5-7-5). Nguyên bản tiếng Nhật chỉ có một câu thơ.
- Dòng 1: Giới thiệu.
- Dòng 2: Tiếp tục ý trên và chuẩn bị cho dòng 3.
- Dòng 3: Ý thơ kết lại nhưng không rõ ràng, mở ra những suy ngẫm, cảm xúc cho người đọc ngân nga, lan tỏa.
Nội dung: Phản ánh tâm hồn người Nhật – tâm hồn ưa thích hòa nhập với thiên nhiên, vì vậy nội dung thường hướng đến một phong cảnh, một vài sự vật cụ thể, một tứ thơ, một cảm xúc, một suy tư… của người viết.
Tứ thơ: Khơi gợi xúc cảm, suy tư trong một khoảnh khắc hiện tại (quy tắc sử dụng quý ngữ).
Nội dung Chùm thơ hai-cư Nhật Bản
Mỗi bài thơ đều mang đến cho người đọc giá trị nhân văn sâu sắc, ý nghĩa về cuộc sống.
Tác giả Chùm thơ hai-cư Nhật Bản
Chùm thơ Hai-cư Nhật bản do nhiều tác giả thực hiện, thông tin sơ lược về những nhà thơ này:
Mát -chư-ô Ba-sô
- Ông sinh năm 1644, mất năm 1694 là nhà thơ nổi tiếng của văn học Nhật.
- Ông có công lớn trong việc hoàn thiện thơ hai-cư đưa nó trở thành thể thơ độc đáo nhất của Nhật Bản.
Chi-ô
- Sinh năm 1703, mất năm 1750
- Là người đánh dấu sự hiện diện của tác giả nữ trong truyền thống thơ hai-cư.
- Trước bà, thơ hai-cư của tác giả nữ thường bị coi thường và quên lãng.
- Bà đã trở thành một tiếng nói thơ ca độc đáo, được nhiều người yêu thích.
Cô-ba-y-a-si Ít-sa
- Sinh năm 1763, mất năm 1828
- Là nhà thơ kiêm tu sĩ Phật giáo.
- Ông còn là họa sĩ tài ba, nổi tiếng với những bức tranh có đề các bài thơ hai-cư do chính ông sáng tác.
Chùm thơ hai-cư Nhật Bản thuộc thể loại gì?
Chùm thơ hai-cư thuộc thể thơ truyền thống, có vị trí quan trọng đối với văn học Nhật Bản. Đồng thời còn được xem là một trong những hình thức cô đọng nhất của thơ ca trên toàn thế giới.

Nghệ thuật bài Chùm thơ hai-cư Nhật Bản
Cả 3 bài thơ ngắn gọn, sử dụng hình ảnh ẩn dụ của con vật, cây cối để truyền tải thông điệp sâu sắc, triết lý, đầy nhân văn.
Soạn bài Chùm thơ hai-cư Nhật Bản
Hướng dẫn học sinh soạn văn bài Chùm thơ hai-cư Nhật Bản chuẩn chương trình sách mới lớp 10.
1/ Soạn văn lớp 10 Chùm thơ hai-cư Nhật Bản – Bài thơ ngắn nhất mà bạn đã từng đọc là bài nào? Điều gì khiến nó được bạn nhớ tới?
Bài thơ ngắn nhất mà tôi từng đọc là:
Cỏ hoang trên đồng ruộng
Dẫy xong bỏ tại chỗ
Phân bón!
Như ta đã biết, thơ hai-cư không thiên về tả mà là gợi. Vì vậy, tác giả để cho người đọc tự do tư duy hoặc tự do bộc lộ cảm xúc. Với bài thơ này, đã để lại trong ta cái hình ảnh bình dị, lao động đời thường của “cỏ hoang trên đồng ruộng” và được “bỏ tại chỗ” khi “dẫy xong”. Thế nhưng, câu cuối “phân bón” lại gợi cho ta về cảm xúc nhân sinh sâu lắng về phận “cát bụi” trở về cát bụi của con người trong cái vòng sinh tử.
2/ Soạn bài Chùm thơ hai-cư ngắn nhất – Hãy hình dung về màu sắc, không khí của khung cảnh được gợi tả trong bài thơ
- Màu sắc: nâu của cành cây khổ, đen của con quạ.
- Không khí: lạnh lẽo, u ám, ảm đạm.
3/ Soạn bài Chùm thơ hai-cư Ấn tượng mà hình ảnh “hoa triêu nhan” và “dây gàu” gợi ra cho bạn là gì?
Ấn tượng mà hình ảnh “hoa triêu nhan” và “dây gàu” gợi hình ảnh hoa triêu nhan quấn vào dây gàu để bung nở, gợi ra một sức sống căng tràn của thiên nhiên.
4/ Khi nhắc đến “con ốc” và “núi Phu-gi”, người ta thường nghĩ đến những đặc điểm nào của chúng?
Khi nhắc đến “con ốc”, người ta thường nghĩ đến sự chậm chạp, lâu la, nhắc đến “núi Fu-gi”, người ta thường nghĩ đến sự cao lớn, mênh mông vô tận.
5/ Hãy nhận diện hình ảnh trung tâm ở từng bài thơ hai-cư và cho biết đặc điểm chung của các hình ảnh ấy
Bài thơ 1: Hình ảnh trung tâm là “con quạ”.
Bài thơ 2: Hình ảnh trung tâm là “hoa triêu nhan”.
Bài thơ 3: Hình ảnh trung tâm là “con ốc nhỏ”.
Nhận xét chung: Hình ảnh trung tâm là những sự vật bé nhỏ, bình thường và gần gũi.
6/ Xác đinh mối quan hệ giữa hình ảnh trung tâm trong bài thơ của Ba-sô với các yếu tố thời gian và không gian
Hình ảnh trung tâm là cánh quạ đậu trên cành khô trong bài thơ thứ nhất gợi lên một không gian của chiều thu vắng lặng tiêu sơ, cô quạnh.
7/ Bài thơ của Chi-y-ô được triển khai xoay quanh phát hiện nào? Theo bạn, vì sao phát hiện này lại dẫn dắt nhân vật trữ tình sang “xin nước nhà bên”?
Nhà thơ phát hiện dây hoa triêu nhan đang quấn quanh sợi dây gàu bên thành giếng.
Nhà thơ nhìn thấy sự sống nhìn thấy cái đẹp trong đóa triêu nhan nhỏ nhoi nhưng bền bỉ. Hoa triêu nhan vốn là một loại dây leo đã quấn vào gây gàu để nở. Trước cái đẹp, trước sự sống nhà thơ nâng niu, trân trọng, không nỡ làm tổn thương nên chọn giải pháp “xin nước nhà bên”, để sự sống và cái đẹp được hiện hữu.
8/ Từ những đặc điểm thường được liên hệ khi hình dung về “con ốc” và “núi Phu-gi”, hãy nhận xét về tương quan giữa hai hình ảnh này
Thời gian hiện ra thật chậm qua động tác “chậm rì, chậm rì” của con ốc.
Không gian thể hiện qua hình ảnh tương phản giữa ngọn núi Phu-gi với hình ảnh con ốc bé nhỏ. Sự tương phản giữa cái to lớn với cái bé nhỏ càng làm bật lên sự cô đơn. Nhưng quan trọng là nó nói lên sự nỗ lực của con người trong hành trình chinh phục cuộc sống, ước mơ lớn lao của đời người.
9/ Khoảnh khắc được thể hiện trong bài thơ của Ba-sô có thể khơi gợi những cảm xúc gì ở người đọc?
“Cành cây”, “con quạ”, “chiều thu” toát ra sự cô tịch. Bài thơ không chỉ tái hiện phong cảnh héo úa của một chiều thu bên hình bóng một con quạ, nó còn là sự tương phản của thân hình màu đen và sự bé nhỏ của con quạ giữa bóng tối bao la vô định sắp trùm xuống của buổi chiều hôm.
Hình ảnh con quạ cô đơn đậu trên cành cây trơ trụi giữa một chiều thu mênh mông đã đưa người đọc vào cảnh giới u huyền và cô tịch, một thế giới hư không như trống rỗng.
10/ Từ bài thơ của Chi-y-ô, hãy bình luận về ý nghĩa triết lí trong cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên mà bài thơ gợi ra
Nhân vật trữ trình Ciyo ra giếng lấy nước, thấy hoa triêu nhan đang quấn quanh dây gầu. Thương hoa, trân trọng vẻ đẹp mong manh, thuần khiết của hoa nên không nỡ dùng gầu múc nước mà sang nhà hàng xóm xin nước để dùng. Triết lí về cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên: trân trọng sự sống tự nhiên dù là nhỏ bé, trân trọng cái đẹp. Một đóa triêu nhan mỏng manh làm tỏa sáng một tình thương mênh mông và cảm động.
11/ Bạn cảm nhận như thế nào về hành trình “chậm rì” của con ốc trong bài thơ của Ít-sa?
Hành trình con ốc trèo lên núi Phú Sĩ gợi lên cuộc hành trình chinh phục ước mơ, hoài bão, khát vọng của con người. Trên thực tế cuộc sống, mỗi người đều là chú ốc nhỏ bé bình dị nhưng đều ấp ủ một giấc mơ cháy bỏng của riêng cuộc đời mình. Sức mạnh nội tại của chính bản thân chúng ta là nguồn sức mạnh động lực để thúc đẩy đưa chúng ta đến đỉnh cao của cuộc đời mình. Nếu như chú ốc sên khát khao chinh phục núi Phú Sĩ thì mỗi người đều có một đỉnh cao của cuộc đời mình mà muốn chinh phục. Một hình ảnh giàu sức gợi và mang triết lí nhân sinh sâu sắc.
Từ việc đọc ba bài thơ trong chùm thơ hai-cư, hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày về điều bạn cảm thấy thú vị nhất ở thể thơ hai-cư
Bài làm 1:
Haiku của Nhật Bản thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa con người và thiên nhiên. Hầu hết các bài thơ trong haiku đều xuất hiện hình ảnh thiên nhiên. Ở haiku, thiên nhiên và con người có mối tương giao thầm lặng mà khăng khít. Cộng thêm hình thức cực tiểu, cô đọng và hàm xúc nên thơ haiku thường sử dụng quý ngữ (từ chỉ mùa). Hơn tất cả, cái hay của thơ nằm ở chỗ không bao giờ nói đủ tất cả và “chỉ gợi chứ không tả”. Mỗi bài thơ là mỗi cách cảm nhận riêng có của tác giả cũng như người đọc, tùy vào kinh nghiệm của cá nhân. Và haiku chấp nhận tất cả, miễn là có lí do hợp lí, cái mơ hồ và đa nghĩa ấy, không phải là nhược điểm mà là ưu điểm của thể thơ này.
Bài làm 2:
Có một thể thơ nó lướt qua tâm hồn ta, ta có cảm giác như đang chạm vào thiên nhiên, chạm vào từng mùa, đó là haiku. Đọc haiku là chạm vào hơi thở của mùa. Đó là chạm vào hoa đào, đom đóm, lá phong, tuyết trắng, chiều thu,… Thơ haiku là một thể thơ rất Nhật Bản, là linh hồn văn hóa xứ Phù Tang. Cho nên nói đến văn học Nhật Bản, người ta không quên nói đến thơ haiku. Ngày nay thơ haiku không còn là của riêng dân tộc Nhật Bản mà nó lan tỏa khắp thế giới. Để rồi có nhiều người ngưỡng mộ và sáng tác theo thể thơ haiku.
Thơ haiku ra đời từ thế kỉ XVII và phát triển mạnh vào thời kì Edo (1603 – 1867). Thiền sư lỗi lạc Matsuo Basho được thừa nhận là người khai sinh ra haiku và Yosa Buson, Masaoka Shiki đã hoàn thiện nó dưới diện mạo và tên gọi như chúng ta thấy ngày nay.
Bài làm 3:
Các bài thơ haiku thường chỉ là những nét chấm phá, gợi mở để độc giả vận dụng trí tưởng tượng đến các sự vật, hiện tượng khác. Vì thế, nó được xem là một bức tranh thủy mặc. Nó chứa đựng một khoảng trống, một khoảng chân không nhưng tràn trề sự sinh động của cuộc sống:
Lá thủy tiên
dưới làn tuyết mới
nhè nhẹ trĩu mình
Vẽ lên một chiếc lá thủy tiên thôi mà ta cảm thấy được cả đời sống của cỏ cây, sự phân định của các mùa. Đó là do sự liên tưởng của người đọc. Cho đến nay, thơ haiku vẫn lôi cuốn người đọc nhiều nước trên thế giới bởi nội dung và nghệ thuật đặc sắc của nó. Haiku đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới để học và nghiên cứu. Người ta còn kết hợp haiku với hội họa. Thơ haiki là sản phẩm tinh thần riêng của người Nhật Bản, là niềm tự hào của đất nước Phù Tang, của xứ sở hoa anh đào.

Vài kiến thức cơ bản về thơ hai-cư
Vẻ đẹp tịch liêu (sabi) trong lối lên miền Oku – Matsuo Basho
Basho là một haijin (người sáng tác haiku) nổi tiếng của Nhật Bản. Ông là người có công đưa haiku lên địa vị lừng lẫy trên thi đàn thế giới. Thị tập quan trọng góp phần định hình phong cách Tiêu phong (Tofu) cũng như giúp Basho trở thành một trong tứ trụ haiku Nhật Bản (Basho – Buson – Issa – Shiki) chính là Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi). Đây là một tác phẩm thuộc thể kí có lời kể, có chi tiết, sự kiện, có phác họa chân dung… nghĩa là có chất tự sự. Tuy nhiên, nó cũng thật sự là một tác phẩm trữ tình, với văn xuôi haibun kết hợp cùng thơ haiku, với những bức tranh tràn ngập hình ảnh thiên nhiên mà qua đó, cái tôi trữ tình của tác giả được bộc lộ vừa chân thành mộc mạc, vừa kín đáo tinh tế.
Hình ảnh thiên nhiên trong Oku no hoshomichi rất đa dạng, phong phú: từ hình ảnh mùa xuân đến mùa đông; từ không gian biển khơi đến rừng sâu, thời thẳm; từ cái nhỏ bé tầm thường như chấy bọ, vỏ hến, xác hoa đến cái lớn rộng vĩ địa như sông Mogami hay dải Ngân Hà… Hình ảnh trong Oku no hoshomichi không chỉ thể hiện vẻ cô liêu, quạnh hiu, u buồn mà còn thể hiện vẻ thanh tú, tao nhã, tươi đẹp, đam mê. Có lẽ vì vậy mà Basho được mệnh danh là “thi sĩ của cái ao xưa, của biển Sado hoang sơ hay của đồng cỏ dại”. Đây là những hình ảnh biểu tượng cho một vẻ đẹp lí tưởng mà mĩ học Nhật Bản gọi là sabi.
Về từ vựng, sabi vốn được danh từ hóa từ động từ sabu có nghĩa là suy tàn, phai nhạt theo thời gian. Sabi cũng có nghĩa là trạng thái tĩnh lặng khi con người qua đời cũng có nghĩa là lớp mốc xanh trên đồ đồng xưa. Fujiwara no Toshinari (1114 – 1204), Zeami (1363 – 1443), Zenchiku (1405 – 1468) thống nhất quan điểm cho rằng sabi là tịch lặng, hoang liêu, cô quạnh, tự nhiên (tịch). Zenchiku dùng từ sabu để miêu tả cảnh đám lau sậy ven biển lụi tàn vì sương gió. Sen no Rikyu – bậc thầy trà đạo XVI, thường ghép wabisabi để đề cao vẻ đẹp tự nhiên, đơn giản. Nhật Chiêu trong cuốn Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868 nhấn mạnh: “Sabi (tịch) là linh hồn của tịch liêu và xa xưa. Đó là niềm tịch tĩnh mà trong những kinh nghiệm thiền quán, người ta cảm thấy”. Trong cuốn tản văn Ca tụng bón tối, Junichiro Tanizaki đã nêu lên niềm yêu thích của người Nhật dành cho những đồ vật mang dấu vết của bụi bặm, bồ hóng và khí hậu, màu sắc và lớp bóng gợi nhắc đến quá khứ đã tạo ra chúng, một vẻ đẹp nhuốm màu thời gian. Đến Basho, ngoài những ý nghĩa trên, nhà thơ đã bổ sung thêm ý nghĩa tươi đẹp, tao nhã, ấn tượng (nhã) cho sabi. Hình ảnh thiên nhiên cô quạnh trong tập Lối lên miền Oku có sự kết hợp hài hòa giữa tinh thần hòa tan bản ngã vào thiên nhiên của Thiền tông và tinh thần tìm linh hồn cái đẹp trong thảo mộc của Thần đạo. Cảm thức đó thể hiện đậm nét trong tập thơ đến độ được Nhật Chiêu khẳng định: “Mỗi bài haiku trong tác phẩm dường như đều thấm nhuần cảm thức sabi”.
Xem thêm:
- Phân tích tác phẩm thơ hai-cư xuất sắc theo chường trình mới với đầy đủ lập luận chi tiết nhất.
- Chữ người tử tù lớp 10: Hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt cốt truyện
Kết luận
Hướng dẫn soạn bài, dàn tác phẩm Chùm thơ hai-cư Nhật Bản đã được cập nhật chính xác. Học sinh theo dõi và soạn bài đầy đủ để nắm được các thông tin chính của tác phẩm.